Hội chứng ruột kích thích là gì? Các công bố khoa học về Hội chứng ruột kích thích

Hội chứng ruột kích thích (IBS) là rối loạn chức năng thường gặp ở đại tràng, không gây tổn thương nhưng ảnh hưởng cuộc sống. Triệu chứng gồm đau bụng, thay đổi thói quen đại tiện, đầy hơi. Nguyên nhân chưa rõ ràng nhưng có thể do mất cân bằng vi khuẩn, di truyền, căng thẳng. Chẩn đoán thông qua triệu chứng và loại trừ rối loạn khác. Điều trị gồm điều chỉnh ăn uống, dùng thuốc, liệu pháp tâm lý, và tập thể dục. Phòng ngừa bằng chế độ ăn hợp lý và giảm căng thẳng. IBS mạn tính nhưng có thể kiểm soát với chăm sóc thích hợp.

Hội Chứng Ruột Kích Thích: Giới Thiệu Chung

Hội chứng ruột kích thích (IBS - Irritable Bowel Syndrome) là một rối loạn chức năng thường gặp ảnh hưởng đến đại tràng. Dù không gây tổn thương nghiêm trọng, IBS có thể ảnh hưởng tiêu cực tới chất lượng cuộc sống của người bệnh. Biểu hiện chính của hội chứng này là đau bụng, tiêu chảy, táo bón, hoặc kết hợp cả hai.

Triệu Chứng

Các triệu chứng của IBS thường khác nhau ở mỗi người và có thể dao động từ nhẹ đến nghiêm trọng. Một số dấu hiệu thường gặp bao gồm:

  • Đau bụng hoặc khó chịu ở vùng bụng dưới.
  • Thay đổi thói quen đại tiện: tiêu chảy, táo bón hoặc cả hai.
  • Đầy hơi hoặc gia tăng khí ruột.
  • Cảm giác đi ngoài nhưng không hiệu quả.
  • Xuất hiện chất nhầy trong phân.

Nguyên Nhân

Cho đến nay, nguyên nhân chính xác gây ra IBS vẫn chưa được xác định rõ ràng. Tuy nhiên, nó có thể do sự kết hợp của nhiều yếu tố như:

  • Mất cân bằng vi khuẩn trong đường ruột.
  • Di truyền học.
  • Rối loạn chức năng hệ thần kinh ruột.
  • Căng thẳng và áp lực tâm lý.

Chẩn Đoán

IBS thường được chẩn đoán bằng cách xem xét triệu chứng và loại trừ các rối loạn tiêu hóa khác. Các xét nghiệm có thể được thực hiện bao gồm xét nghiệm máu, xét nghiệm phân và nội soi đại tràng để loại trừ các nguyên nhân nghiêm trọng hơn như bệnh viêm ruột hoặc ung thư đại tràng.

Điều Trị

Điều trị IBS chủ yếu tập trung vào việc kiểm soát triệu chứng và cải thiện chất lượng cuộc sống. Các phương pháp điều trị bao gồm:

  • Điều chỉnh chế độ ăn uống: tăng cường chất xơ, tránh thực phẩm gây khó chịu như caffeine, rượu, đồ ăn nhiều gia vị.
  • Thuốc: thuốc chống co thắt cơ trơn, thuốc an thần, và các loại thuốc nhắm tới triệu chứng tiêu hóa cụ thể.
  • Liệu pháp tâm lý: kỹ thuật giảm căng thẳng, hỗ trợ tâm lý.
  • Tập luyện thể dục: cải thiện chức năng tiêu hóa và giảm căng thẳng.

Phòng Ngừa

Mặc dù không có cách phòng ngừa hiệu quả tuyệt đối cho IBS, một số biện pháp có thể giúp giảm nguy cơ và tác động của triệu chứng như:

  • Duy trì chế độ ăn uống cân bằng và giàu chất xơ.
  • Cố gắng giảm căng thẳng bằng luyện tập yoga, thiền định hoặc các hoạt động giải trí.
  • Theo dõi các thực phẩm hoặc thói quen sinh hoạt gây ra triệu chứng và thay đổi chúng.

Kết Luận

Hội chứng ruột kích thích là một rối loạn mạn tính, nhưng không gây nguy hiểm tính mạng. Với sự chăm sóc và quản lý thích hợp, nhiều người có thể kiểm soát tốt triệu chứng và duy trì cuộc sống bình thường. Việc hiểu rõ hơn về hội chứng này và tìm kiếm sự hỗ trợ y tế kịp thời là yếu tố quan trọng để quản lý IBS hiệu quả.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "hội chứng ruột kích thích":

Hệ thống điểm số mức độ hội chứng ruột kích thích: một phương pháp đơn giản để theo dõi hội chứng ruột kích thích và sự tiến triển của nó Dịch bởi AI
Alimentary Pharmacology and Therapeutics - Tập 11 Số 2 - Trang 395-402 - 1997

Đặt bối cảnh: Việc đánh giá lâm sàng và khảo sát hội chứng ruột kích thích sẽ được cải thiện đáng kể nếu có một hệ thống điểm số mức độ đơn giản, dễ sử dụng. Hệ thống như vậy, đã được phát triển tại khoa của chúng tôi trong nhiều năm, đã được đưa ra để xác thực trên tổng số 141 bệnh nhân và 40 người khỏe mạnh.

Phương pháp: Hệ thống này, bao gồm cơn đau, đầy hơi, rối loạn chức năng ruột và chất lượng cuộc sống/sự thịnh vượng toàn cầu, đã được đánh giá về khả năng ghi điểm cho những bệnh nhân trước đây được phân loại là nhẹ, trung bình hoặc nặng. Tính tái lập và độ nhạy với sự thay đổi của hệ thống cũng đã được đánh giá.

Kết quả: Điểm tối đa có thể đạt được là 500. Các trường hợp nhẹ, trung bình và nặng được chỉ ra bởi các điểm số lần lượt là 75 đến 175, 175 đến 300 và >300. Người kiểm soát ghi điểm dưới 75 và những bệnh nhân có điểm trong khoảng này có thể được coi là đang trong tình trạng thuyên giảm. Có sự khác biệt rất có ý nghĩa giữa những người kiểm soát và bệnh nhân nói chung (P=0.0001) cũng như các khác biệt có ý nghĩa (P<0.01) giữa tất cả các loại độ nặng. Các điểm số lặp lại trong vòng 24 giờ rất có độ tái lập cao và độ nhạy với sự thay đổi cũng cực kỳ tốt (P<0.001) với sự thay đổi 50 đáng tin cậy cho thấy có sự cải thiện.

Kết luận: Các kết quả này cho thấy rằng hệ thống điểm số này sẽ là một công cụ giá trị trong việc giúp đáp ứng nhiều thách thức mà hội chứng ruột kích thích mang lại.

Đánh giá có hệ thống với phân tích tổng hợp: hiệu quả của prebiotics, probiotics, synbiotics và kháng sinh trong hội chứng ruột kích thích Dịch bởi AI
Alimentary Pharmacology and Therapeutics - Tập 48 Số 10 - Trang 1044-1060 - 2018
Tóm tắtĐặt vấn đề

Hội chứng ruột kích thích (IBS) là một rối loạn chức năng ruột mãn tính. Những rối loạn trong hệ vi sinh đường ruột có thể liên quan đến nguyên nhân của nó.

Mục tiêu

Thực hiện một đánh giá có hệ thống và phân tích tổng hợp để kiểm tra hiệu quả của prebiotics, probiotics, synbiotics và kháng sinh trong IBS.

Phương pháp

MEDLINE, EMBASE, và Danh mục Thử nghiệm Kiểm soát của Cochrane đã được tìm kiếm (đến tháng 7 năm 2017). Các thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng (RCT) tuyển mộ người lớn mắc IBS, so sánh prebiotics, probiotics, synbiotics hoặc kháng sinh với giả dược hoặc không điều trị đều đủ điều kiện. Dữ liệu triệu chứng nhị phân đã được tổng hợp để có được nguy cơ tương đối (RR) của việc còn triệu chứng sau khi điều trị, với khoảng tin cậy 95% (CI). Các dữ liệu liên tục được tổng hợp bằng cách sử dụng sự khác biệt trung bình chuẩn hóa với khoảng tin cậy 95% CI.

Kết quả

Tìm kiếm đã xác định 4017 trích dẫn. Dữ liệu cho prebiotics và synbiotics còn thiếu. Năm mươi ba RCTs của probiotics, liên quan đến 5545 bệnh nhân, đã đủ điều kiện. Những kết hợp cụ thể của probiotics hoặc các loài và dòng cụ thể dường như có tác dụng tích cực đến triệu chứng toàn cục của IBS và đau bụng, nhưng không thể rút ra kết luận chắc chắn về hiệu quả của chúng. Có năm thử nghiệm có thiết kế tương tự đã sử dụng rifaximin ở bệnh nhân IBS không táo bón, với hiệu quả cao hơn giả dược (RR của triệu chứng kéo dài = 0.84; 95% CI 0.79-0.90). Các sự kiện bất lợi không phổ biến hơn với probiotics hoặc kháng sinh.

Kết luận

Kết hợp cụ thể nào, các loài hoặc dòng probiotics nào hiệu quả cho IBS vẫn chủ yếu không rõ ràng. Rifaximin có tác dụng khiêm tốn trong việc cải thiện triệu chứng ở bệnh nhân IBS không táo bón.

Vi sinh vật đường ruột trong sức khỏe, bệnh diverticular, hội chứng ruột kích thích và bệnh viêm ruột: Thời điểm cho dấu hiệu vi sinh vật của các rối loạn tiêu hóa Dịch bởi AI
Digestive Diseases - Tập 36 Số 1 - Trang 56-65 - 2018

Có rất ít dữ liệu về sự khác biệt trong thành phần vi sinh vật đường ruột giữa các bệnh đường tiêu hóa chính. Chúng tôi đã đánh giá sự khác biệt trong thành phần vi sinh vật đường ruột giữa bệnh diverticular không biến chứng (DD), hội chứng ruột kích thích (IBS) và bệnh viêm ruột (IBD). Bệnh nhân DD, IBS và IBD cùng với những người khỏe mạnh (CT) đã được tuyển chọn vào phòng khám ngoại trú tiêu hóa của chúng tôi ở Ý. Mẫu phân đã được thu thập. Thành phần vi sinh vật được đánh giá thông qua phương pháp tiếp cận gen nhắm mục tiêu metagenomic. Bệnh lý tiêu hóa thể hiện một quang phổ liên tục của các bệnh, trong đó IBD thể hiện một cực đoan, trong khi CT thể hiện cực đối diện. Giữa các Phyla, đồ thị Biplot PC2/PC3 và đồ thị dendogram cho thấy sự khác biệt lớn trong các mẫu từ IBS và IBD. DD có thành phần tương tự với CT, nhưng không đối với Bacteroides fragilis. Trong IBS, Dialister spp. và sau đó là Faecalibacterium prausnitzii là các loài đại diện nhất. Viêm loét đại tràng cho thấy nồng độ Clostridium difficile giảm và nồng độ Bacteroides fragilis tăng. Trong bệnh Crohn, Parabacteroides distasonis là loài được đại diện nhiều nhất, trong khi Faecalibacterium prausnitziiBacteroides fragilis bị giảm đáng kể. Mỗi rối loạn có chữ ký vi sinh vật tổng thể riêng, tạo ra sự khác biệt rõ ràng so với các rối loạn khác. Mặt khác, những thay đổi chung tạo thành “dysbiosis lõi” của các bệnh đường tiêu hóa. Việc đánh giá những dấu hiệu vi sinh vật này đại diện cho một tham số có thể bổ sung cho việc đánh giá chẩn đoán.

Dịch tễ học cholecystectomy và hội chứng ruột kích thích ở một quần thể Vương quốc Anh Dịch bởi AI
British Journal of Surgery - Tập 87 Số 12 - Trang 1658-1663 - 2000
Tóm tắt Nền tảng

Các bệnh nhân mắc hội chứng ruột kích thích (IBS) có thể trải qua phẫu thuật cắt bỏ túi mật không cần thiết. Bài báo này mô tả tỷ lệ cholecystectomy và IBS trong một mẫu người trưởng thành ở Anh tại Teesside. Các mối liên hệ giữa hai trạng thái này và mối quan hệ của chúng với hành vi tư vấn và tình trạng kinh tế xã hội được mô tả. Kết quả được so sánh với những dữ liệu từ Bristol nhằm xác định ảnh hưởng của các yếu tố liên quan đến dịch vụ đối với tỷ lệ cholecystectomy.

#Cholecystectomy #Hội chứng ruột kích thích #Tình trạng kinh tế xã hội #Hành vi tư vấn
Chức năng tự động trong hội chứng ruột kích thích được đo bằng biến thiên nhịp tim: Một phân tích meta Dịch bởi AI
Journal of Digestive Diseases - Tập 14 Số 12 - Trang 638-646 - 2013
Mục tiêu

Phân tích chức năng tự động được thể hiện qua thành phần tần số cao (HF), một phép đo của giọng dây thần kinh, và tỷ lệ tần số thấp (LF) so với HF (LF : HF), một chỉ số của sự cân bằng giữa giao cảm và đối giao cảm ở bệnh nhân hội chứng ruột kích thích (IBS).

Phương pháp

Chúng tôi đã xác định các nghiên cứu liên quan bằng cách thực hiện tìm kiếm tài liệu trên MEDLINE, EMBASEISI Web of Knowledge đến ngày 31 March 2013. Các kích thước hiệu ứng gộp với khoảng tin cậy 95% (CI) đã được tính toán bằng mô hình hiệu ứng ngẫu nhiên. Sự không đồng nhất giữa các nghiên cứu được đánh giá bằng cách sử dụng test Q và thống kê I2.

Kết quả

Tổng cộng có 11 bài báo gồm 392 bệnh nhân IBS và 263 đối chứng đã đáp ứng tiêu chí bao gồm của phân tích. Bệnh nhân IBS có công suất băng tần HF thấp hơn (Hedges's g = −0.38, 95% CI −0.68 đến −0.09) so với nhóm đối chứng (I2 = 63.6%, P = 0.003). Hơn nữa, bệnh nhân IBS cho thấy tỷ lệ LF : HF cao hơn (Hedges's g = 0.43, 95% CI 0.13–0.74), không có sự không đồng nhất đáng kể. Phân tích tiểu nhóm của chỉ số HF theo thời gian ghi lại cho kết quả khác nhau đối với bệnh nhân IBS và nhóm đối chứng. Thêm vào đó, bệnh nhân hội chứng ruột kích thích kiểu táo bón (IBSC) có công suất băng tần HF giảm, trong khi không tìm thấy sự khác biệt đáng kể ở tỷ lệ LF : HF.

Kết luận

Chức năng đối giao cảm bị suy giảm và sự mất cân bằng giao cảm – đối giao cảm bất thường có thể liên quan đến sinh bệnh học của IBS. Rối loạn dây thần kinh phế vị rõ ràng hơn trong tiểu nhóm IBSC.

#Hội chứng ruột kích thích #biến thiên nhịp tim #chức năng tự động #rối loạn dây thần kinh phế vị
ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG VÀ HÌNH ẢNH NỘI SOI ĐẠI TRÀNG BỆNH NHÂN CÓ HỘI CHỨNG RUỘT KÍCH THÍCH THEO TIÊU CHUẨN ROME IV
Đặt vấn đề: Hội chứng ruột kích thích (IBS: Irritable bowel syndrome) là một rối loạn chức năng tiêu hóa. Theo tiêu chuẩn ROME IV, bệnh nhân có IBS khi có triệu chứng đau bụng ít nhất 1 lần/tuần trong vòng 3 tháng gần nhất liên quan đến rối loạn đi tiêu. Các bệnh lý viêm loét đại tràng, polyp hay ung thư đại trực tràng cũng có triệu chứng giống IBS nhưng thường kèm theo triệu chứng báo động. Mục tiêu nghiên cứu: Mô tả đặc điểm lâm sàng, hình ảnh nội soi của bệnh nhân hội chứng ruột kích thích theo tiêu chuẩn Rome IV. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang, ghi nhận triệu chứng lâm sàng, kết quả nội soi đại trực tràng của những bệnh nhân ≥18 tuổi đã được nội soi tại trung tâm nội soi của Bệnh viện trường Đại học Y Dược Cần Thơ năm 2021-2022. Kết quả: Chúng tôi ghi nhận 187 ca được nội soi đại trực tràng, 54% có tổn thương trên nội soi đại trực tràng gồm: 60,3% có triệu chứng báo động, 41% không có triệu chứng báo động. Trong đó có 17,6% Viêm/loét, 36,9% polyp, 13,4 % túi thừa. Kết luận: Nhóm bệnh nhân có tổn thương trên nội soi, đa số bệnh nhân có triệu chứng báo động nhưng vẫn có một số bệnh nhân không có triệu chứng báo động. Vì vậy trong quy trình chẩn đoán IBS cần chú trọng loại trừ những yếu tố nguy cơ và chỉ định cận lâm sàng tầm soát như nội soi đại trực tràng nên được thực hiện.   
#Hội chứng ruột kích thích #tiêu chuẩn ROME IV #triệu chứng báo động #nội soi đại trực tràng
HIỆU QUẢ THUỐC SULPIRIDE TRONG CẢI THIỆN CHẤT LƯỢNG CUỘC SỐNG Ở BỆNH NHẬN HỘI CHỨNG RUỘT KÍCH THÍCH
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 502 Số 1 - 2021
Đặt vấn đề: Hội chứng ruột kích thích (IBS) là một bệnh lý với các triệu chứng đường tiêu hóa như đau bụng, chướng bụng, đầy hơi, ảnh hưởng nhiều đến chất lượng cuộc sống (CLCS) của bệnh nhân (BN). Mục tiêu: Khảo sát hiệu quả điều trị của thuốc sulpiride trong cải thiện chất lượng cuộc sống ở bệnh nhận hội chứng ruột kích thích. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang mô tả thực hiện trên những BN IBS được bác sĩ chẩn đoán bằng tiêu chuẩn ROME III tại phòng khám Tiêu hoá, bệnh viện Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh từ 01/06/2018 – 01/02/2019, có hoặc không sử dụng sulpiride. Thu thập số liệu về đặc điểm nền của bệnh nhân, điểm CLCS được thu thập dựa trên bộ câu hỏi IBS-QoL phiên bản tiếng Việt đã được dịch thuật và thẩm định cho toàn bộ đối tượng tham gia nghiên cứu tại thời điểm ban đầu và sau 8 tuần theo dõi. Kết quả: Sau 8 tuần theo dõi, 246 BN hoàn thành nghiên cứu, trong đó 120 BN nhóm điều trị có sulpiride và 126 BN nhóm điều trị không có sulpiride, tỷ lệ nữ/nam là 1,4/1. Sau 8 tuần theo dõi, kết quả điểm CLCS tổng thể và các điểm CLCS ở các khía cạnh đặc điểm khó chịu, lo lắng sức khỏe, phản ứng xã hội, mối quan hệ cao hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm không sulpiride (p < 0,001). Khi đánh giá độ thay đổi điểm CLCS, độ thay đổi điểm CLCS tổng thể và các khía cạnh khó chịu, cản trở hoạt động, hình thể, lo lắng sức khỏe, phản ứng xã hội, mối quan hệ ở nhóm có sulpiride cũng cao hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm không dùng sulpiride, ulpuride (p < 0,05). Kết luận: Sử dụng thuốc sulpiride điều trị BN IBS giúp cải thiện CLCS tổng thể, thay đổi ở các đặc điểm khó chịu, cản trở hoạt động, hình thể, lo lắng sức khỏe, phản ứng xã hội, mối quan hệ.
#Sulpiride #hội chứng ruột kích thích #chất lượng cuộc sống
Đánh giá tác dụng của viên nang cứng HCR1 trong điều trị hội chfíng ruột kích thích
Tạp chí Y Dược cổ truyền Việt Nam - Tập 1 Số đặc biệt 20/11 - Trang 104-108 - 2021
Mục tiêu: Đánh giá tác dụng điều trị của viên nang cứng HCR1 trên bệnh nhân hội chứng ruột kích thích. Phương pháp nghiên cứu: Phương pháp tiến cứu, can thiệp lâm sàng mở, so sánh trước và sau điều trị, chọn mẫu thuận tiện trên 70 bệnh nhân (BN) hội chứng ruột kích thích được điều trị bằng viên nang cứng HCR1 từ tháng 7/2019 đến hết tháng 7/2020 tại Bệnh viện Y học cổ truyền Bộ công an. Các kết quả được đánh giá tại ba thời điểm: ngay sau phẫu thuật, thời điểm ra viện và sau phẫu thuật 3 tháng. Số liệu sau thu thập được xử lý bằng phần mềm SPSS 20.0. Kết quả: Tỷ lệ đạt hiệu quả tốt và khá sau điều trị là 88,6%; cải thiện các triệu chứng lâm sàng như đau bụng, đại tiện phân lỏng nát, đầy chướng bụng, rối loạn tống phân khi đi đại tiện; 92,9% không còn ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống; 82,2% không còn hoặc rối loạn mức độ nhẹ chức năng đại tràng. Viên nang HCR1 có tác dụng cải thiện các chứng trạng Y học cổ truyền, tỷ lệ bệnh nhân đạt kết quả tốt và khá ở thể can khí uất kết cao hơn (91,4%) thể can uất tỳ hư (85,7%).
#Hội chứng ruột kích thích #viên nang cứng HCR1.
ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG CUỘC SỐNG Ở BỆNH NHÂN HỘI CHỨNG RUỘT KÍCH THÍCH
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 511 Số 1 - 2022
Hội chứng ruột kích thích là một rối loạn chức năng tiêu hóa thường gặp ở nước ta cũng như trên thế giới, đặc điểm lâm sàng là đau bụng, khó chịu và thay đổi thói quen đại tiện. Mục tiêu: Đánh giá chất lượng cuộc sống ở bệnh nhân hội chứng ruột kích thích. Đối tượng và phương pháp: 207 BN trên 18 tuổi, được chẩn đoán hội chứng ruột kích thích theo tiêu chuẩn ROME IV. Tại bệnh viện Bạch mai từ tháng 06/2019 - 09/2020. Phương pháp nghiên cứu: Tiến cứu, mô tả cắt ngang. Kết quả: Điểm chất lượng cuộc sống (CLCS) chung của nhóm nghiên cứu là 79,3 (95%CI: 77,2 – 81,3). Lĩnh vực hạn chế ăn uống có điểm CLCS thấp nhất (62,3; 95%CI: 59,2 – 65,4), tiếp theo là lĩnh vực hoạt động thể chất (67,9; 95%CI: 64,9 – 70,9). Lĩnh vực hoạt động xã hội và các mối quan hệ xã hội có điểm CLCS cao tương ứng là 90,6 (95%CI: 89,1 – 92,1) và 94,0 (95%CI: 92,4 – 95,5). - Nhóm bệnh nhân nghiên cứu có CLCS chủ yếu ở mức độ vừa (87 bệnh nhân tương ứng với 42,0%). Có 12 bệnh nhân (5,8%) có CLCS ở mức rất kém, 42 bệnh nhân (20,3%) có CLCS ở mức kém và 66 bệnh nhân (31,9%) có điểm CLCS ở mức tốt. - Điểm CLCS trên lĩnh vực hoạt động tình dục ở nhóm trên 70 tuổi (100 điểm) cao hơn các nhóm tuổi khác, thấp nhất là ở nhóm tuổi dưới 30 tuổi (77,8; 95%CI: 67,2 – 88,5). Kết luận: Chất lượng cuộc sống chung ở mức vừa (42,0%), CLCS ở mức kém và rất kém 26,1%. Các lĩnh vực hạn chế ăn uống, lo lắng sức khỏe và hoạt động thể chất có điểm CLCS chung ở mức độ kém và vừa (từ 62,3 – 77,9 điểm).
#Hội chứng ruột kích thích #chất lượng cuộc sống
ĐẶC ĐIỂM NỘI SOI ĐẠI TRÀNG VÀ MÔ BỆNH HỌC Ở BỆNH NHÂN CÓ TRIỆU CHỨNG CỦA HỘI CHỨNG RUỘT KÍCH THÍCH THEO ROME IV
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 517 Số 2 - 2022
Mục tiêu: Mô tả đặc điểm lâm sàng, nội soi đại trực tràng, mô bệnh học (nếu có) trên nhóm bệnh nhân có và không có triệu chứng báo động theo ROME IV và xác định một số yếu tố nguy cơ trên nhóm bệnh nhân có tổn thương u tân sinh nguy cơ cao. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang, ghi nhận triệu chứng lâm sàng và kết quả nội soi đại trực tràng của những bệnh nhân ≥ 18 tuổi đã được nội soi và có triệu chứng của HCRKT theo ROME IV. Kết quả: Chúng tôi ghi nhận 265 ca được nội soi đến manh trành, có 163 trường hợp (61,5%) có triệu chứng của HCRKT theo ROME IV. Kết quả nội soi đại trực tràng ghi nhận: 41,72% bệnh nhân không có tổn thương và 95 trường hợp có tổn thương (33,74% viêm/loét, 9,82% polyp tuyến và 3,68% trường hợp ung thư đại trực tràng). Trong nhóm bệnh nhân không có triệu chứng báo động, tỷ lệ tổn thương sau nội soi đại tràng thấp và không ghi nhận u tân sinh nguy cơ cao. Mô hình dự đoán nguy cơ tổn thương u tân sinh nguy cơ cao là gồm: (1) tuổi, tiêu máu và sụt cân (OR: 1,07, 10,47 và 7,74); (2) tiêu máu, sụt cân và điểm Asian - Pacific Colorectal Screening (OR: 7,47, 1,41 và 2). Kết luận: Trong nhóm bệnh nhân không có triệu chứng báo động, đa số không có tổn thương hoặc không có tổn thương u tân sinh nguy cơ cao. Tỷ lệ u tân sinh nguy cơ cao trong nhóm bệnh nhân HCRKT chiếm tỷ lệ thấp, nhưng tất cả bệnh nhân đều có triệu chứng báo động và điểm APCS cao. Vì vậy, trước chẩn đoán HCRKT cần chú ý loại trừ những yếu tố nguy cơ này.
#Hội chứng ruột kích thích #triệu chứng báo động #thang điểm Asian - Pacific Colorectal Screening (APCS) #u tân sinh nguy cơ cao
Tổng số: 35   
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4